Sau nhiều lần thực hiện cải cách giáo dục thì hiện nay ở nước ta đang áp dụng hệ 12 năm học cho hệ phổ thông. Câu hỏi mà nhiều người băn khoăn là Hệ 12 năm bắt đầu từ năm nào?
Bước 4. Học về các âm trong âm tiết và cách ghi chính tả
Âm tiết tiếng việt thường có mẫu như sau:
Bước 3. Luyện đọc và cách phát âm
Tiếng Việt có hệ thống các nguyên âm, phụ âm vô cùng phức tạp. Việc phát âm chính xác các âm này là một thử thách. Ngoài phương pháp nghe – nhắc lại, người học cần có thêm những sự hướng dẫn, giải thích cụ thể từ giáo viên để phân biệt được chúng.
Như chúng ta đã biết, tiếng Việt có quan hệ logic giữa đọc và viết. Do vậy khi phát âm chuẩn thì bạn có thể viết được cái bạn nghe, cái bạn nhìn thấy. Đó là nền tảng tốt cho việc học tiếng Việt của người nước ngoài.
Khi học phát âm gắn liền với việc nghe chúng ta không cần phải cố nhớ và hiểu rõ nghĩa từ cần phát âm mà quan trọng là giúp ta quen dần với ngữ điệu và nhịp điệu từ đó. Học phát âm chuẩn tiếng Việt là một quá trình lâu dài do vậy không nên vội vàng mà cần có phương pháp luyện tập thường xuyên và từng bước đưa vào ngữ cảnh cụ thể.
Bước 1. Bắt đầu với bảng chữ cái
Trong quá trình giao tiếp, nhiều người nước ngoài có thể nói tiếng Việt nhưng không biết gọi tên các con chữ trong bảng chữ cái. Khi cần sử dụng, họ lấy cách phát âm bảng chữ cái tiếng Anh để thay thế.
Do vậy, trước khi bắt đầu học một ngôn ngữ nào điều đầu tiên chúng ta không thể bỏ qua đó là làm quen với bảng chữ cái. Điều này hết sức quan trọng giúp người học tiếp cận được với ngôn ngữ. Chúng ta cần phải nắm chắc bảng chữ cái và những quy luật của nó.
Bảng chữ cái tiếng việt như chúng ta đã biết bao gồm 29 chữ theo thứ tự như sau: a, ă, â, b, c, d, đ, e, ê, g, h, i, k, l, m, n, o, ô, ơ, p, q, r, s, t, u, ư, v, x, y. Trong bảng chữ cái này được chia ra như sau:
Bước 5. Bổ sung vốn từ vựng Tiếng Việt
Từ vựng tiếng Việt có mười từ loại và được phân chia làm hai nhóm chính là thực từ và hư từ.
Trên đây là các bước để người học có thể tham khảo và vận dụng tự xây dựng một lộ trình học tiếng Việt hiệu quả.
Hiện tượng sáng tác song ngữ trong Văn học trung đại Việt Nam ra đời chắc chắn phải từ khi chữ Nôm đã được phổ biến, tức khoảng nửa sau thế kỷ XIII, với sáng tác của Đức Vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông, hiện tượng song ngữ đã xuất hiện ngay trong cùng một tác phẩm chẳng hạn các bài phú Cư trần lạc đạo, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca.
Ở cả hai bài phú này, Trần Nhân Tông cơ bản viết bằng chữ Nôm nhưng có các câu kệ ở cuối bài lại viết bằng chữ Hán. Sang các thế kỷ sau trở đi hiện tượng này ngày càng phổ biến với những tác gia tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du…
Như vậy, ở các tác giả này chữ Hán và chữ Nôm được song song sử dụng, việc sáng tác cả bằng chữ Hán và chữ Nôm cho thấy ứng xử của các nhà Nho với hai kiểu văn tự, hai lối hành xử trong công việc: Một mặt dùng chữ Hán như ngôn ngữ chính thức, hành chính, nghiêm trang, mặt khác dùng chữ Nôm với tinh thần dân tộc, ý thức văn hóa dân tộc cũng như tiếp thu và Việt hóa các yếu tố văn học từ nước ngoài vào.
Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) là một trong những tác gia tiêu biểu ở nửa cuối thế kỷ XIX, cũng là một trong những tác gia kết thúc của giai đoạn Văn học trung đại Việt Nam.
Như vậy, đến Nguyễn Khuyến, hiện tượng sáng tác song ngữ đã diễn ra ít nhất năm thế kỷ, việc sử dụng chữ Nôm đã trở nên phổ biến, thuần thục. Bên cạnh đó, chữ Hán vốn là văn tự để thi cử nên chắc chắn đã được Nguyễn Khuyến học hành một cách bài bản ngay từ nhỏ với những bài văn sách và qua các lần thi, điều đó mới giúp Nguyễn Khuyến đỗ đầu cả ba kỳ thi một cách xuất chúng.
Như các nhà nghiên cứu trước đây đã thống nhất, Nguyễn Khuyến nổi tiếng trong văn học là về thơ Nôm, nhất là mảng thơ viết về làng cảnh, ông cũng được tôn vinh là Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam.
Tuy nhiên bên cạnh đó, những sáng tác chữ Hán của Nguyễn Khuyến cũng rất có giá trị, điều đáng lưu ý là rất nhiều sáng tác chữ Hán đã được chính Tam Nguyên Yên Đổ dịch ra chữ Nôm và nhiều người đọc đã quá quen thuộc với áng thơ Nôm của Nguyến Khuyến mà ít người biết rằng nó vốn là những bài thơ chữ Hán.
Qua khảo sát sáng tác của Nguyễn Khuyến, chúng tôi nhận thấy có hàng chục tác phẩm như vậy, tuy nhiên trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, chúng tôi xin điểm lại một số tác phẩm tiêu biểu trong số ấy như: Di chúc văn, Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư cùng một số bài thơ khác.
Di chúc văn - Bản di chúc có giá trị văn học sâu sắc
Trong bản di chúc này, chúng ta nhận thấy một nhân cách cao cả, đặc biệt việc dặn con lo chuyện hậu sự cho mình một cách đơn giản, tránh phô trương hình thức và lãng phí không cần thiết đồng thời cũng thấy tâm sự thời thế của Nguyễn Khuyến khi cáo quan về hưu trí vườn Bùi.
Lời di chúc ngắn gọn nhưng hàm chứa bao điều về nhân cách của một bậc đại quan, đặc biệt không muốn con cháu tổ chức tang lễ linh đình, tốn kém rồi để nợ cho người sống.
Sống được tiếng trên đời trọn vẹn,
Chết lại gần quê quán hương thôn.
Ăn chơi đã trải chết chôn chớ hề.
Hễ ai chạy lại khuyên mời người ăn.
Đối trướng đừng gấm vóc làm chi;
Mời quan đề chủ con thì chớ nên.
Môn sinh chẳng tống tiền đạt giấy,
Lễ đưa điếu phúng con thời chớ thu.
Ấy chẳng qua bận cho người sống,
Rằng: “Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.
Lời dặn cuối bản di chúc càng làm ngời sáng nhân cách của Nguyễn Khuyến, đó cũng là nỗi niềm tâm sự của một người “bó tay bất lực” trước thời cuộc cũng như cảm thấy “Sách vở ích gì cho buổi ấy”.
Sau khi triều đình nhà Nguyễn kí hiệp ước Pa-tơ-nốt thừa nhận quyền bảo hộ của thực dân Pháp, Nguyễn Khuyến cũng lấy cớ mắt kém để cáo quan về ẩn dật nhưng luôn trong tâm trạng u hoài trước thực trạng đất nước.
“Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư” - Một tình bạn cao đẹp
Điều đáng lưu ý ở các tác giả có sáng tác song ngữ, chúng tôi nhận thấy phần lớn những sáng tác mang tính hành chính quan phương thường viết bằng chữ Hán (Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập…) còn những sáng tác mang tính thơ ca, nghệ thuật thường sáng tác bằng chữ Nôm (Quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi, Truyện Kiều…).
Trong sự nghiệp thơ văn Nguyễn Khuyến, tình bạn chiếm một phần không nhỏ trong đó có khá nhiều thi phẩm quen thuộc được đưa vào chương trình giáo dục phổ thông từ trước tới nay như Bạn đến chơi nhà, Hỏi thăm bác Châu Cầu, Khóc Dương Khuê… Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là đôi bạn thân thiết từ khi cùng đỗ đại khoa và chung hoạn lộ, sau sự kiện 1884, Nguyễn Khuyến cáo quan về ẩn dật còn Dương Khuê tiếp tục con đường làm quan với chế độ thực dân.
Mặc dù hai người lựa chọn hai cách hành xử khác nhau, lập trường chính trị khác nhau nhưng về tình bạn giữa hai người lại rất gắn bó, thủy chung.
Năm 1902, Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến làm bài thơ khóc bạn bằng chữ Hán với nhan đề Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư, sau đó chính tác giả lại dịch ra chữ Nôm và bản chữ Nôm trở thành phổ biến hơn cả. Những dòng thơ mở đầu đã khá quen thuộc với bao thế hệ bạn đọc qua bản chữ Nôm như tiếng nấc nghẹn ngào:
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Sau hai câu mở đầu, Nguyễn Khuyến dành phần lớn bài thơ nhắc lại những kỷ niệm gắn bó giữa hai người như cùng đỗ đạt, cùng chung hoạn nạn, cùng chơi bời, ca hát, xướng họa tâm đầu ý hợp.
Kỷ niệm gần nhất là đôi bạn gặp nhau cách đây ba năm, cầm tay nhau mừng mừng, tủi tủi khi thấy cả hai đều mạnh khỏe, tinh thần minh mẫn. Thế nhưng bỗng nghe tin bạn mất, mọi thú vui trở nên vô nghĩa, cảm giác hụt hẫng, trống vắng đến khôn cùng. Những câu thơ viết về nỗi đau mất mát ấy nói không nước mắt mà kì thực lại đầm đìa nước mắt:
(Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư)
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
Có khi là những vần thơ mang đầy tâm trạng của thi nhân trong nỗi niềm cô quạnh, điều đó cũng được tác giả tự dịch trong bài thơ Ký hữu với những câu thơ mang tâm trạng u uẩn:
Bằng bối điêu linh thục dữ quần?
Loạn thế hành tàng như độc hạc,
Tuổi già hình bóng tựa mây côi.
Bên cạnh những vần thơ trữ tình sâu sắc, Nguyễn Khuyến còn để lại mảng thơ trào phúng cũng rất thâm thúy. Tìm hiểu những bài thơ này chúng ta thấy sự uyên thâm, hay chữ của một bậc đại Nho. Có khi là tiếng cười lặng lẽ mà không kém phần thâm thúy, sâu cay.
Đem tặng hoa trà (có sắc không hương) cho cụ Nguyễn Khuyến kém mắt hẳn là có ý “xỏ xiên” như cụ dự đoán, ngay lập tức cụ vận dụng thành ngữ “ba que xỏ lá” để đáp lại với câu thơ có vẻ tự nhiên: Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá. Toàn văn bài thơ như sau:
Xuân lai khách tặng ngã sơn trà,
Bạch phát thương nhan, ngô lão hĩ,
Tầm thường tế vũ kinh xuyên diệp,
Tiêu sắt thần phong oán lạc già.
Liễu vô hương khí nhất kha kha!
Đương say còn biết cóc đâu hoa!
Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá
Đếch thấy hơi thơm, một tiếng khà!
Trên đây là một vài khảo sát bước đầu của chúng tôi về một hiện tượng rất đặc biệt trong quá trình sáng tác song ngữ ở một tác gia tiêu biểu cuối thế kỷ XIX.
Tìm hiểu về hiện tượng sáng tác song ngữ trong văn học trung đại sẽ giúp giáo viên, học sinh có những cách hiểu kĩ hơn về tác phẩm để thấy hết cái hay, cái đẹp của văn chương.