Sau hơn 6 năm thi hành sứ vụ mục tử chăm sóc đoàn chiên Gx. Châu Pha (Hạt Long Hương), ngày 16.5.2024, Cha Gioan Bosco Phạm Đặng Trung Minh đã trở thành vị chủ chăn tiếp theo của đoàn chiên Gx. Mai Khôi (Hạt Bình Giã) theo sự bổ nhiệm của Đức Giám mục Giáo phận, thay thế Cha Phaolô Nguyễn Thành Lai (được sai đến chăm sóc đoàn chiên Phước Thái- Hạt Bà Rịa).
Các tiện nghi được ưa chuộng nhất
Các địa danh nổi tiếng gần nhất *
Hạng phòng: Superior Double – 2 khách (giá chưa bao gồm VAT)
Phụ Thu Ngày Lễ Tết: Liên hệ Mùa thấp điểm: (01/01/2020 -31/01/2020) +( 01.09.2020 -31.12.2020) Mùa cao điểm: (01/02/2020 – 31/08/2020)
Địa chỉ : Lầu 6, Toà nhà Phú Mỹ Hưng, số 8 Hoàng Văn Thái, khu phố 1, Phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
Biển Đức XVI (cách phiên âm tiếng Việt khác là Bênêđictô XVI hay Bênêđitô, xuất phát từ Latinh: Benedictus; tên khai sinh là Joseph Aloisius Ratzinger; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12 năm 2022) là giáo hoàng thứ 265 của Giáo hội Công giáo Rôma, tại vị từ năm 2005 đến năm 2013. Ông được bầu làm giáo hoàng trong Mật nghị Hồng y vào ngày 19 tháng 4 năm 2005. Thánh lễ đăng quang, có tên chính thức là Thánh lễ Khai mạc Sứ vụ Mục Tử Toàn thể Hội Thánh, được tổ chức ngày 24 tháng 4, và nhận ngai tòa giám mục tại Vương cung thánh đường Thánh Gioan Latêranô ngày 7 tháng 5 năm 2005.
Biển Đức XVI theo khuynh hướng thần học, nỗ lực giảng dạy và bảo vệ các giá trị truyền thống, các giá trị giáo lý Công giáo. Vào thời điểm bầu làm Giáo hoàng, ông cũng là Hồng y Niên trưởng của Hồng y đoàn, tham gia quán xuyến các công việc của giáo hội trong thời gian chuyển tiếp (trống tòa).
Trong triều đại của mình, Biển Đức XVI đang nhấn mạnh một ước vọng để châu Âu quay trở về các giá trị cơ bản của Kitô giáo, phản ứng trước các khuynh hướng bài Kitô giáo và chủ nghĩa thế tục đang ngày một gia tăng ở nhiều quốc gia phát triển. Ông cũng đã phục hồi một số truyền thống, và đặc biệt là làm cho các Thánh lễ Tridentine có được một vị trí nổi bật hơn trong phụng vụ.
Giáo hoàng Biển Đức XVI cũng là người sáng lập và bảo trợ của Tổ chức Ratzinger, một tổ chức từ thiện quyên góp tiền từ việc bán sách và các bài luận, văn bản của giáo hoàng để lập quỹ học bổng cho sinh viên trên toàn thế giới.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI không tránh khỏi những sự chỉ trích. Phong cách làm việc cứng rắn, tư duy bảo thủ, thái độ không khoan nhượng với các tư tưởng ly khai đã khiến ông nhận phải các biệt danh khó nghe như "Hồng y Thiết giáp" (Panzerkardinal), "Con chó dữ của Vatican", "Người thẩm tra Vĩ đại". Tuy nhiên, uy tín của ông lại rất cao đối với các chức sắc bảo thủ của giáo hội; ông được ca ngợi là "Người ngăn chặn dị giáo từ năm 1981".[2]
Được coi là một người bảo thủ, nhưng Biển Đức XVI đã có một số bước đi được đánh giá là mềm dẻo và linh hoạt hơn giáo hoàng tiền nhiệm, tỉ như ông là giáo hoàng đầu tiên nói về khả năng sử dụng bao cao su, dù chỉ trong những trường hợp cụ thể như với một người bị nhiễm AIDS, cố tránh việc rao giảng đạo đức mà thay bằng các bài nói chuyện mang tính cá nhân về đức tin. Ông cũng là giáo hoàng đầu tiên mở tài khoản Twitter và tuyên bố giáo hội sẽ bị bỏ lại phía sau nếu không bắt kịp thời đại.[3] Năm 2008, ông trở thành giáo hoàng đầu tiên bày tỏ "sự hổ thẹn" vì những vụ xâm hại và đã gặp các nạn nhân. Nhưng ông cũng bị chỉ trích vì không thừa nhận quy mô của vụ việc trong suốt 24 năm trước đó khi là người đứng đầu Bộ Giáo lý Đức tin, cơ quan lý luận nòng cốt của Tòa Thánh. Có ý kiến tố cáo rằng giáo hoàng đã buộc các thuộc cấp phải giữ im lặng về những việc làm sai trái của các linh mục, tạo nên một "bức tường im lặng" khuyến khích việc lạm dụng tình dục trẻ em tại các cơ sở Công giáo,[4][5] nhưng Linh mục Lombardi, phát ngôn viên chính thức của Vatican đã lên tiếng đả kích điều mà họ gọi là những mưu toan nhằm kết nối Giáo hoàng Biển Đức XVI với vụ tai tiếng đó.
Tuy nhiên, triều đại của Biển Đức XVI cũng trải qua những sóng gió và bất ổn liên quan đến các mâu thuẫn sâu sắc về đường lối hoạt động giữa phe bảo thủ - đứng đầu bởi chính giáo hoàng - và phe cải cách[6], đồng thời cũng được đánh dấu bằng nhiều sự kiện "nhức nhối" gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín Tòa thánh và giáo hoàng, tỉ như một số tuyên bố gây xúc phạm Hồi giáo, sự kiện các chức sắc cao cấp dính dáng đến bê bối xâm hại tình dục, việc giải vạ rút phép thông công cho một nhóm giáo sĩ cực đoan có các phát biểu bài Do Thái, vụ mâu thuẫn về nhân sự của IOR, và đặc biệt là vụ Vatileaks.[7] Ông Georg Ratzinger, anh trai của Giáo hoàng, đã nhận định rằng những năm cầm quyền của Biển Đức XVI là rất khó khăn với nhiều vấn đề phát sinh trong nội bộ Vatican, như là những mâu thuẫn, rạn nứt giữa các chức sắc tôn giáo và vụ Vatileaks tai tiếng, những điều đó đã gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của giáo hoàng.[8] Bản thân giáo hoàng cũng cảnh báo nguy cơ nội tại của Vatican có thể sẽ làm "hư hại bộ mặt của giáo hội".[9]
Ngày 11 tháng 2 năm 2013, Giáo hoàng Biển Đức XVI tuyên bố sẽ từ chức Giám mục Rôma, Giáo hoàng Giáo hội Công giáo kể từ ngày 28 tháng 2 năm 2013[10]. Theo thông cáo chính thức, giáo hoàng từ nhiệm với lý do tuổi cao và sức khỏe sa sút[11].
Tuy nhiên, các tờ báo như The Independent, Guardian, Daily Mail có ý nghi ngờ việc Biển Đức XVI từ chức cũng có thể có liên quan đến vụ Vatileaks và những tranh chấp quyền lực gay gắt trong nội bộ Vatican.[6][12][13] Phía Vatican tuyên bố sẽ không có bất cứ bình luận gì về vụ việc này.[9] Trong cuốn sách phát hành ngày 9.9.2016 giáo hoàng đã phủ nhận chuyện này, và cho là vấn đề đã được giải quyết hoàn toàn.[14]
Biển Đức XVI được bầu làm giáo hoàng ở tuổi 78, là người Đức thứ chín làm giáo hoàng. Ông là người cao tuổi nhất được bầu làm giáo hoàng kể từ Giáo hoàng Clement XII (1730-40). Ông tiếp nối tông hiệu của Giáo hoàng Biển Đức XV (một người Ý) trị vì từ 1914-1922 trong suốt Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Sinh năm 1927 tại Marktl am Inn, Bavaria nước Đức, Ratzinger đã có một sự nghiệp nghiên cứu chuyên sâu cấp quốc tế, đảm nhận làm giáo sư thần học tại các trường đại học khác nhau ở Đức. Ông được Giáo hoàng Phaolô VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Tổng giáo phận Muchen và Freising, được phong tước hồng y vào năm 1977. Năm 1981, ông trở thành Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin của Tòa Thánh - một trong những cơ quan quan trọng nhất của Giáo triều Rôma. Năm 1998, ông được bầu làm Phó Niên trưởng, Hồng y Đoàn.
Ngay cả trước khi trở thành giáo hoàng, Ratzinger đã là một trong những người có ảnh hưởng nhất trong Giáo triều Rôma, và là người thân cận của Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Trên cương vị Hồng y Niên trưởng của Hồng y Đoàn, ông đã chủ tế tang lễ của Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Thánh lễ khai mạc Mật nghị Hồng y 2005 mà sau đó ông đã được bầu chọn. Trong thời khắc này, ông kêu gọi các hồng y giữ vững các giáo lý, giáo luật và đức tin Công giáo. Ông cũng là gương mặt nổi bật của giáo hội trong thời gian trống tông tòa (vacante sede), mặc dù trên thực tế, ông không thể ngang bằng chức vị với Hồng y Thị thần (camerlengo) trong thời gian đó. Giống như người tiền nhiệm của ông, Biển Đức XVI luôn khẳng định các Giáo lý Công giáo truyền thống.
Ngoài tiếng Đức mẹ đẻ, Biển Đức XVI nói lưu loát tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Latinh và có thể nói tương đối tiếng Bồ Đào Nha. Ông có thể đọc Kinh Thánh cổ ngữ bằng tiếng Hy Lạp và tiếng Do Thái[15]. Ông chơi được dương cầm và có sở thích nhạc Mozart và Bach[16].
Biển Đức XVI tên khai sinh là Joseph Alois Ratzinger. Ông sinh ngày 16 tháng 4 năm 1927 tại Marktl am Inn, Bavaria, Đức và được rửa tội cùng ngày. Ông là con út trong gia đình có ba người con. Cha ông là Joseph Ratzinger, một sĩ quan cảnh sát và mẹ là Maria Ratzinger (nhũ danh Peintner). Người anh ruột tên là Georg Ratzinger, là một linh mục hiện đã qua đời, trong khi chị gái là Maria Ratzinger, sống độc thân cùng với gia đình cho đến lúc mất vào năm 1991.
Sau sinh nhật tuổi 14 của mình, ông gia nhập tổ chức Đoàn thanh niên Hitler - một dạng tổ chức cưỡng bách tham gia của Đức Quốc xã cho các thiếu niên Đức tuổi 14 sau tháng 12 năm 1939. Ông bị gọi nhập ngũ phục vụ với tư cách quân nhân dự bị trong lực lượng phòng không Đức quốc xã (Luftwaffenhelfer) vào những tháng sau cùng của Chiến tranh thế giới thứ hai. Tuy nhiên sau đó Ratzinger cho rằng Hitler là kẻ thù của chúa Giêsu[17], đào ngũ trở về gia đình khi chiến tranh gần kết thúc song đã bị quân Đồng Minh bắt giữ làm tù binh chiến tranh trong một thời gian rất ngắn trong năm 1945.
Sau khi hồi hương năm 1945, hai anh em Ratzinger đã gia nhập Chủng viện Thánh Micae ở Traunstein, sau đó theo học tại Đại học Ludwig-Maximilian ở Munich. Từ năm 1946, ông học về triết học và thần học tại Đại học München, rồi học cao học tại Freising. Hai anh em Ratzinger cùng được thụ phong linh mục vào ngày 29 tháng 6 năm 1951 bởi Hồng y Michael von Faulhaber Munich. Năm 1953, ông nhận bằng tiến sĩ về thần học với đề tài mang tên: "Dân Chúa trong học thuyết của Thánh Augustinô về Giáo hội". Đề tài được hoàn thành vào năm 1957 và ông trở thành một giáo sư của trường Cao đẳng Freising vào năm 1958.
Năm 1959, Ratzinger làm giáo sư tại Đại học Bonn; bài giảng đầu tiên của ông là "Thiên Chúa của Đức tin và Thiên Chúa của Triết học". Năm 1963, ông chuyển sang Đại học Münster. Trong thời gian này, Ratzinger có tham gia Công đồng Vatican II (1962-1965) trên cương vị cố vấn thần học của Hồng y Josef Frings, Giáo phận Cologne. Ông được xem là một nhà cải cách, hợp tác với các nhà thần học hiện đại cấp tiến như Hans Küng và Edward Schillebeeckx, chiếm được sự ngưỡng mộ của Karl Rahner, một nhà thần học nổi tiếng trong các đề xuất cải cách giáo hội. Năm 1966, Joseph Ratzinger được bổ nhiệm vào một vị trí giáo lý thần học tại Đại học Tübingen, ông trở thành đồng nghiệp của Hans Küng.
Trong những năm tại Đại học Tübingen, Ratzinger công khai bài viết cho tạp chí cải cách thần học Concilium, mặc dù càng về sau, ông ít viết về chủ đề cải cách hơn những người đóng góp khác cho tạp chí như Hans Küng và Edward Schillebeeckx. Ratzinger liên tục tham gia vào các công việc của Công đồng Vatican II, trong đó có Tuyên ngôn Nostra Aetate (Thời đại Chúng ta), các văn kiện về tôn trọng các tôn giáo khác, đại kết, tuyên bố các quyền tự do tôn giáo. Về sau, khi làm việc trong Bộ Giáo lý Đức tin, Ratzinger đã có nhiều cố gắng đưa Công giáo tham gia vào các cuộc đối thoại đại kết Kitô giáo.
Ngày 24 tháng 3 năm 1977, Ratzinger được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Tổng giáo phận Munich và Freising. Ông lấy khẩu hiệu trích từ Tân Ước, Thư thứ ba của Gioan Cooperatores Veritatis (Đồng hành cùng chân lý), sau này ông có đề cập trong tự truyện của mình. Trong hội nghị ngày 27 tháng 6, ông được Giáo hoàng Phaolô VI phong làm Hồng y linh mục hiệu tòa Santa Maria Consolatrice al Tiburtino. Thời gian Mật nghị năm 2005, ông là một trong 14 hồng y do Giáo hoàng Phaolô VI phong, và là một trong ba người dưới 80 tuổi. Trong số này, chỉ có ông và William Wakefield Baum có quyền tham gia mật nghị.
Ngày 25 tháng 11 năm 1981, Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ông làm Tổng trưởng Thánh bộ Giáo lý Đức tin, trước đây được gọi là Văn phòng Tòa Thánh, ông thôi chức Tổng Giám mục Munich đầu năm 1982. Ông tiếp tục được thăng chức hồng y, trở thành Hồng y Giám mục Hiệu tòa Velletri-Segni năm 1993, phó chủ tịch Hồng y Đoàn năm 1998 và chức chủ tịch vào năm 2002. Trên cương vị này, Ratzinger hoàn thành vai trò tổ chức của mình để bảo vệ và tái khẳng định giáo lý Công giáo, bao gồm việc giảng dạy về các chủ đề trọng tâm của Công giáo như ngừa thai, đồng tính luyến ái và cuộc đối thoại liên tôn.
Từ khi đứng đầu Bộ Giáo lý Đức tin, Ratzinger trở thành bàn tay sắt của giáo hội và là một trợ thủ đắc lực của Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Ông là tác giả của nhiều ý kiến và phát biểu gây sóng gió bậc nhất trong giáo hội, phần lớn là theo ý kiến bảo thủ và gìn giữ các truyền thống của giáo hội. Ông từng cách chức nhà thần học Charles Curran vì cho rằng Curran có tư tưởng chống đối, trừng phạt những nhà thần học khai phóng vì cho rằng họ có thiên hướng Mácxít, cấm việc viết lại Kinh thánh theo ngôn ngữ xưng hô cho cả nam lẫn nữ, nghiêm khắc yêu cầu linh mục phải độc thân, phản đối ngừa thai và cấm thụ phong cho nữ giới. Ông còn tuyên bố nhạc rock là tà giáo, chỉ trích bình quyền nam nữ trong Kinh thánh và cho phép các giám mục Hoa Kỳ từ chối ban thánh thể cho những người ủng hộ quyền phá thai và quyền được chết. Tư tưởng cứng rắn của Ratzinger khiến nhiều người chỉ trích nhưng nhờ đó ông nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của giới chức sắc bảo thủ. Bản thân Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng rất tin tưởng Ratzinger.[2] Năm 1997, Ratzinger đã chỉ trích Phật giáo là "một dạng tâm linh tự dâm" và "tiếp cận sự vô tận và hạnh phúc mà không có một ràng buộc tôn giáo vững chắc nào"[18]
Ngày 2 tháng 1 2005, tạp chí Time trích dẫn các nguồn không rõ từ Vatican nói rằng Ratzinger là một ứng cử viên lớn để kế vị Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Tháng 4 năm 2005, trước khi bầu làm giáo hoàng, ông được nhận định là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới cũng bởi tạp chí này. Sau Gioan Phaolô II qua đời, Financial Times đã cho tỷ lệ cược Ratzinger trở thành Giáo hoàng là 7-1, vị trí dẫn đầu. Nhưng trong khi còn ở Bộ Giáo lý Đức Tin, Ratzinger nhiều lần tuyên bố ông muốn nghỉ hưu để về quê nhà của ông ở làng Bavarian để viết sách. Trong lịch sử, rất hiếm khi các dự đoán về vị Giáo hoàng tương lai được đưa ra lại đúng với sự thật, nhưng năm 2005 nó đã đúng.
Ngày 19 tháng 4 năm 2005, Hồng y Ratzinger được bầu làm người kế vị Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong ngày thứ hai của Mật nghị Hồng y. Hồng y Ratzinger đã mong muốn nghỉ hưu một cách an bình và nói [đại ý] rằng: "Lúc ấy, tôi cầu nguyện với Thiên Chúa rằng 'xin Người đừng làm điều này với con [...] rõ ràng, Người đã không lắng nghe tôi". Thật trùng hợp, ngày 19 tháng 4 cũng là lễ Thánh Lêô IX, vị giáo hoàng nổi bật thời Trung Cổ, nổi tiếng với những cải cách lớn trong suốt triều đại của ông.
Khi trở thành giáo hoàng, trước lúc xuất hiện với công chúng lần đầu tiên tại ban công Nhà thờ Thánh Phêrô, ông đã được xướng tên bởi Hồng y Thị thần Jorge Medina Estévez. Vị hồng y này công bố với đám đông lớn trước quảng trường với cụm từ "anh chị em thân mến" bằng tiếng Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Đức và tiếng Anh trước khi tiếp tục với thông báo truyền thống "Habemus Papam" bằng tiếng Latinh.
Tại ban công, Biển Đức bước ra trước đám đông, nói tiếng Ý trước khi nghi thức truyền thống Urbi et Orbi bằng tiếng Latin:
Ngày 24 tháng 4, ông tổ chức Thánh lễ Đăng quang tại Quảng trường Thánh Phêrô, nhận Dây Pallium và Nhẫn Ngư phủ - thủ tục chính thức lên ngôi Giáo hoàng thứ 265. Ngày 7 tháng 5, ông nhận tông tòa tại nhà thờ Thánh Gioan Latêranô.
Ratzinger chọn tông hiệu là Benedictus, tiếng Latin có nghĩa là "sự may mắn" và hơn hết là danh dự của cả Giáo hoàng Biển Đức XV và Thánh Biển Đức thành Nursia. Biển Đức XV làm giáo hoàng trong thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông đã tích cực góp phần vào những cố gắng ngoại giao để cuộc chiến chấm dứt và hoà bình. Thánh Benedict Nursia là người sáng lập Dòng Biển Đức. Biển Đức XVI đã giải thích sự lựa chọn đó của mình tại Quảng trường Thánh Phêrô, vào ngày 27 tháng 4 năm 2005:
Ngày 9 tháng 5 năm 2005, Biển Đức XVI bắt đầu quá trình vinh hiển cho người tiền nhiệm của ông, Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Thông thường, đối với một người nào đó, phải qua 5 năm sau khi chết mới có thể bắt đầu quá trình vinh hiển. Tuy nhiên, vẫn có "hoàn cảnh đặc biệt", trong đó nói rằng thời gian chờ đợi như vậy có thể được miễn và Biển Đức XVI đã áp dụng như thế cho cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Giáo hoàng Biển Đức XVI không tích cực trong việc đi viếng thăm các quốc gia khác bằng người tiền nhiệm của ông, Gioan Phaolô II, nhưng ông cũng đã thực hiện một số chuyến đi ra nước ngoài. Hầu hết các chuyến đều liên quan đến các vấn đề của giáo hội.
Ba năm đầu của triều đại, ông đi ra nước ngoài nhiều hơn. Ngoài các chuyến đi đến Ý, ông đã hai lần về thăm nước Đức quê nhà, một lần cho Ngày Giới trẻ Thế giới và một lần về thị trấn thời thơ ấu của ông. Ông cũng đã viếng thăm Ba Lan và Tây Ban Nha, nơi ông đã nhận được nhiều tình cảm. Trong chuyến tới Thổ Nhĩ Kỳ, một quốc gia đa số theo Hồi giáo, ông đã có một bài giảng tại Regensburg gây tranh cãi từ phía người Hồi giáo khiến họ nổi lên làn sóng biểu tình và các quốc gia Hồi giáo khác phản ứng. Tuy nhiên, chuyến đi cũng đã thực hiện một tuyên bố chung với Thượng phụ Đại kết Bartholomew I trong một nỗ lực hàn gắn giữa Công giáo và Chính Thống giáo.
Trong hơn 600 ấn phẩm đã được xuất bản của ông, tiêu biểu có "Nhập môn Kitô giáo" (Introduction to Christianity), xuất bản năm 1968, "Tín lý và Mạc khải", một hợp tuyển các suy tư, bài giảng và tiểu luận dành riêng cho việc mục vụ xuất bản năm 1973.
Ngày 16 tháng 10 năm 2009, Biển Đức XVI nói thế giới phải có hành động "quyết liệt và hiệu quả" chống lại nạn đói sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đẩy hàng ngũ những người thiếu ăn lên tới một mức kỷ lục là 1 tỉ người. Những nước đang phát triển cần đầu tư nhiều hơn, đặc biệt là trong nông nghiệp, để bảo đảm người dân của họ không bị đói, Biển Đức XVI nói trong một thông điệp gửi tới Tổ chức Lương nông của Liên Hợp Quốc (FAO) nhân Ngày Thực phẩm Thế giới. "Cuộc khủng hoảng này đòi hỏi các chính phủ và các thành viên của cộng đồng quốc tế phải có những lựa chọn quyết liệt và hiệu quả. Được cung cấp thực phẩm không phải chỉ là một nhu cầu căn bản, đó là một quyền căn bản của các cá nhân và các dân tộc."
Biển Đức XVI thường lên tiếng về cuộc khủng hoảng, kêu gọi một trật tự tài chính thế giới mới được hướng dẫn bởi đạo đức và thúc giục thế giới đừng để cho những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất gánh chịu các hậu quả của cuộc suy thoái. Cuộc khủng hoảng "đặc biệt nghiêm trọng đối với thế giới nông nghiệp, nơi tình hình trở nên thê thảm. Nông nghiệp phải được cung cấp đầy đủ những khoản đầu tư và các tài nguyên". Viện trợ và đầu tư trong nông nghiệp đã giảm sút trong hai thập niên vừa qua, góp phần vào việc gia tăng nạn đói. Năm 2009, số người đói trên khắp thế giới lên tới 1,02 tỉ người giữa lúc giá thực phẩm cao và nền tài chính toàn cầu gặp khủng hoảng, theo cơ quan FAO, có trụ sở tại Roma[21].
Ngày 20 tháng 10 năm 2009, Biển Đức XVI đưa ra một quyết định quan trọng nhằm tạo sự dễ dàng cho những người Anh giáo thất vọng vì tôn giáo của họ được cải sang đạo Công giáo. Hành động này được đưa ra trong bối cảnh nhiều năm gần đây, tín hữu thuộc cộng đồng Anh giáo (với khoảng 77 triệu tín đồ trên toàn thế giới) xảy ra những bất mãn về các vấn đề như: cho nữ giới được làm linh mục và giám mục đồng tính luyến ái. Trong khi cả hai bên đều nói rằng sự kiện này không ảnh hưởng đến cuộc thảo luận đại kết giữa hai giáo hội, có một điều dễ nhận thấy là sở dĩ có việc này vì ngày càng có nhiều người theo Anh giáo muốn bỏ đạo.
Biển Đức XVI phê chuẩn một văn kiện gọi là "Tông hiến", theo đó, Giáo hội Công giáo tiếp nhận người Anh giáo cải sang đạo Công giáo, qua hình thức cá nhân hay cả một nhóm, trong khi vẫn cho duy trì một số truyền thống riêng của Anh giáo. Điều này có lẽ đánh dấu một sự thay đổi rõ ràng và táo bạo nhất về mặt hiến pháp của Vatican để đón chào những người Anh giáo vào hàng ngũ giáo dân Công giáo kể từ khi Vua Henry VIII li giáo với Roma và tự phong mình là người đứng đầu Giáo hội Anh năm 1534.
Việc này cho phép sự bổ nhiệm những người chủ chăn, thường là các giám mục, đến từ hàng ngũ những cựu giáo sĩ Anh giáo không lập gia đình, để chăm nom các cộng đồng Anh giáo cải sang Công giáo và công nhận giáo hoàng là người lãnh đạo họ. Quyết định mới của Giáo hoàng sẽ không ảnh hưởng đến lệnh cấm các linh mục Công giáo lập gia đình. Tuy nhiên sẽ tiếp tục giữ truyền thống cho các tu sĩ Anh giáo có gia đình khi cải đạo tiếp tục duy trì đời sống gia đình của họ. Vatican nói quyết định được đưa ra để đáp ứng "rất nhiều lời thỉnh cầu đệ nạp đến Tòa Thánh từ các nhóm giáo sĩ Anh Giáo và tín đồ từ nhiều khu vực trên thế giới." Người cải đạo từ Anh giáo sang Công giáo nổi tiếng nhất trong thời gian cuối thập niên 2000 là cựu Thủ tướng Anh Tony Blair, trước khi ông rời khỏi chức thủ tướng năm 2007.
Đã có vài vụ vi phạm an ninh dưới thời Biển Đức XVI, bắt đầu vào năm 2005. Vào năm 2007, một người đàn ông Đức nhảy qua một rào cản ở Quảng trường Thánh Phêrô giữa lúc chiếc xe jeep của giáo hoàng đi ngang trong một cuộc tiếp xúc với công chúng. Người đàn ông cố leo lên chiếc xe. Vụ tấn công nghiêm trọng nhất nhắm vào một vị giáo hoàng ở Vatican là vào năm 1981, khi một tay súng người Thổ Nhĩ Kỳ, Mehmet Ali Ağca, bắn và suýt giết chết Giáo hoàng Gioan Phaolô II tại quảng trường Thánh Phêrô.
Tối ngày 24 tháng 12 năm 2009, Biển Đức XVI trong lúc cử hành lễ vào đêm Giáng sinh bị một phụ nữ tên Susanna Maiolo (s. 1984) xông vào xô té. Maiolo, có hai quốc tịch Thụy Sĩ và Ý, không có vũ khí nhảy qua một rào cản ở giáo đường, lao vào giáo hoàng, nắm lấy áo lễ của ngài và làm ngài ngã xuống mặt sàn cẩm thạch, khi ngài đang tiến lên bàn thờ trong thánh lễ Vọng Giáng sinh. Linh mục Ciro Benedettini nói Giáo hoàng sau khi bị té, không bị thương tích gì, đứng lên tiếp tục cử hành lễ. Hồng y Roger Etchegaray cũng bị xô và phải vào bệnh viện khám. Theo linh mục Benedettini, người phụ nữ có vẻ bất ổn về tâm lý và bị cảnh sát Vatican bắt giữ.[22][23]
Sáng Giáng sinh, 25 tháng 12 năm 2009, Biển Đức XVI kêu gọi thế giới từ bỏ bạo lực và trả thù, một ngày sau khi bị Susanna Maiolo xô ngã. Trong thông điệp truyền thống 'Urbi et Orbi' gửi thành phố và thế giới từ bạo lực trung tâm của Nhà thờ Thánh Phêrô, Biển Đức XVI thúc giục thế giới hãy tái khám phá sự giản dị của thông điệp Giáng sinh và đọc những lời chào mừng Giáng sinh bằng 65 ngôn ngữ. Giữa lúc Biển Đức XVI lên tiếng với hàng chục ngàn người tụ tập ở quảng trường phía dưới, Vatican vẫn lưu tâm tới biến cố tối ngày trước đó khi Maiolo xô ngã giáo hoàng.[24]
Ngày 25 tháng 12 năm 2009, phát ngôn viên của Vatican, Cha Federico Lombardi, nói rằng không thể nào cung cấp an ninh tuyệt đối cho giáo hoàng bởi vì gần gũi với mọi người là một phần trong sứ mạng của ông. Trong thông diệp 'Urbi et Orbi', Biển Đức XVI nói thế giới ngày nay phải tái khám phá sự giản dị của thông điệp Giáng sinh. Mọi người nên từ bỏ mọi luận lý của bạo lực và trả thù và tham gia vào tiến trình đưa tới sự sống chung hòa bình với sức mạnh và lòng quảng đại mới. Ông nói trong khi thế giới hiện chìm đắm trong một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, nó cũng bị ảnh hưởng còn nhiều hơn bởi một cuộc khủng hoảng đạo đức, và bởi những vết thương đau đớn của những cuộc chiến tranh và xung đột.[25]
Ngày thứ sáu, 1 tháng 1 năm 2010, trong buổi thánh lễ ngày đầu Năm Mới theo truyền thống, Biển Đức XVI kêu gọi sự tôn trọng và khoan dung, tình yêu....:
Ngày 1 tháng Giêng cũng là Ngày Hòa bình Thế giới của Giáo hội Thiên Chúa La Mã, và Giáo hoàng đưa ra một lời kêu gọi mọi nhóm vũ trang hãy "chấm dứt, suy ngẫm và từ bỏ đường lối bạo động," cho dù điều đó có vẻ không thể thực hiện được. Ông nói hòa bình khởi sự bằng sự thừa nhận rằng con người là anh em, không phải là kẻ thù của nhau. Biển Đức XVI nói trong một thánh lễ tại Giáo đường Thánh Phêrô trước đó trong ngày:
Ghi nhận rằng các lớp học gồm những trẻ em thuộc nhiều gốc gác là điều thông thường, ông nói rằng "những khuôn mặt của chúng là một sự tiên tri về hình thức nhân loại mà chúng ta cần tạo ra: một đại gia đình các dân tộc." Biển Đức XVI đặt trẻ em, đặc biệt là những trẻ em bị tổn thương vì xung đột hoặc bị buộc phải rời khỏi nhà của chúng, làm trọng tâm trong lời kêu gọi hòa bình của ông. Những hình ảnh đau lòng của những trẻ em nạn nhân của chiến tranh và bạo động, những khuôn mặt của chúng "bị biến dạng vì đau đớn và tuyệt vọng," là một lời kêu gọi thầm lặng cho hòa bình, Đức Giáo hoàng nói. Trong những lời bình luận, Biển Đức XVI cũng lập lại lời kêu gọi bảo vệ môi trường, nói rằng sự thoái hóa của con người đưa tới sự thoái hóa của hành tinh.[28]
Sự kiện các linh mục loạn dâm, xâm hại nữ tín đồ hay trẻ em được cho là một đòn giáng nặng nề đối với triều đại của Giáo hoàng Biển Đức XIV, nó khiến cho di sản cá nhân của ông bị hoen ố vì những lời cáo buộc có dính líu đến việc che giấu tội lỗi của giới giáo chức.[29][30] Người ta tố cáo Giáo hoàng Biển Đức XVI, trong thời kì đang trị vì và cả trong thời kỳ còn làm giám mục, đã nhúng tay vào việc che giấu các hành động loạn dâm của giới giáo sĩ, tạo nên một "bức tường im lặng" tại Vatican.[4][5][31] Có ý kiến cáo buộc Ratzinger khi còn làm giám mục đã không báo cáo các hành động sai trái của thuộc cấp cho cảnh sát, và "bỏ qua" những đơn thư nhắc nhở và tố cáo mà thuộc cấp gửi cho mình, và rằng trong thời kỳ đứng đầu Bộ Giáo lý Đức tin, Ratzinger hầu như không làm gì trước vấn nạn này cho đến khi Giáo hoàng Gioan Phaolô II đích thân yêu cầu phải xử lý rõ ràng vụ việc. Và khi điều tra vụ việc, trong một bức thư Ratzinger lại nhấn mạnh là các nhân viên điều tra của giáo hội có quyền giữ "tuyệt mật" theo giáo luật ấn tín Bí tích Hòa giải các bằng chứng liên quan đến nạn ấu dâm trong vòng 10 năm cho đến khi các nạn nhân đã trưởng thành.[29][31]
Christopher Hitchens, trong một buổi nói chuyện với Bill Maher đã phát biểu:
Trong một bức thư gửi các Giám mục Công giáo, nhà thần học Hans Küng nói rằng cách hành xử của giáo hội về các sự vụ này đã gây ra cuộc khủng hoảng về khả năng lãnh đạo cũng như về đức tin trong Giáo hội, và tố cáo Giáo hoàng Biển Đức XVI từng dính líu đến việc bao che cho các linh mục tà dâm:[33]
Nhà thần kinh học Sam Harris cũng tố cáo giáo hoàng có dính líu đến việc bao che các tu sĩ phạm lỗi:
Linh mục Lombardi, phát ngôn viên chính thức của Vatican nhấn mạnh rằng nạn ấu dâm không chỉ xảy ra trong phạm vi giáo hội. Và song song với đó, Tòa thánh Vatican đã lên tiếng đả kích điều mà họ gọi là những mưu toan nhằm nối kết Giáo hoàng Biển Đức XVI với một vụ tai tiếng ngày càng lan rộng về những linh mục xâm hại tính dục trẻ em ở Đức. Linh mục Lombardi phủ nhận những gợi ý cho rằng Giáo hội Công giáo tìm cách che đậy những vụ bê bối của các linh mục[4].
Sau khi làm Giáo hoàng, Biển Đức XVI đã một số lần công khai chỉ trích nạn linh mục loạn dâm. Ông nhiều lần phát biểu hoặc viết thư xin lỗi về những hành vi sai trái do các linh mục gây ra, thăm hỏi các nạn nhân, và kêu gọi giáo hội mạnh tay với vấn nạn chức sắc làm bậy. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng các thái độ ấy là không đủ, và đó chỉ là các hành vi đầu môi chót lưỡi, không thật lòng, và tìm cách tránh né chuyện bao che linh mục loạn dâm.[29]
Trong một buổi thuyết giảng đức tin tại Đại học Regensburg, Đức vào năm 2006, Biển Đức XVI đã trích dẫn một số lời nói của hoàng đế Đông La Mã Manuel II Palaiologos, trong đó có câu "Hãy minh chứng cho tôi những gì mới mẻ mà đấng Muhammad mang lại và ở đó các ngươi sẽ chỉ thấy những điều xấu xa và vô nhân đạo, chẳng hạn như thói rao giảng đức tin bằng gươm giáo."[7] Sau đó giáo hoàng bình luận thêm về bạo lực "là không phù hợp với bản chất của Chúa Trời và của linh hồn", nhưng cũng giải thích rằng "Ý định của tôi ở đây không phải là lật lại vụ việc hay là chỉ trích mang tính tiêu cực, mà là mở rộng khái niệm của chúng ta về lý luận và các ứng dụng của nó." Ông cũng nhấn mạnh trong bài diễn văn rằng, câu nói đó là trích dẫn chứ không phải là câu nói do giáo hoàng tự đặt ra.[35]
Việc trích dẫn câu nói này của vua Đông La Mã đã khiến nhiều người Hồi giáo phẫn nộ. Quốc hội Pakistan đã thông qua quyết định lên án hành động này và đại sứ Vatican tại Pakistan đã bị triệu tập để "làm việc". Người đứng đầu nhóm Huynh đệ Hồi giáo Mohammed Mahdi Akef cáo buộc phát biểu của Giáo hoàng đã kích động sự giận dữ trên toàn thế giới Hồi giáo và không thể hiện sự hiểu biết đúng đắn về tôn giáo này. Salih Kapusuz, phó Bí thư Đảng Công lý và Phát triển (Thổ Nhĩ Kỳ) còn đi xa hơn khi so sánh Biển Đức XVI với Hitler và Mussolini. Thủ tướng Palestine Ismail Haniya cũng chỉ trích dữ dội hành động này của giáo hoàng, cho rằng giáo hoàng đã nói sai sự thật và lăng mạ lịch sử đạo Hồi. Ayatollah Mohammed Hussein Fadlallah, người đứng đầu phái Shia ở Liban, yêu cầu giáo hoàng nên trực tiếp xin lỗi trước công luận chứ không nên gửi lời xin lỗi gián tiếp thông qua các kênh truyền thông khác.[35][36] Tổ chức Hội nghị Hồi giáo bày tỏ sự lo ngại trước phát biểu của giáo hoàng, coi việc trích dẫn này là hành động "ám sát cá nhân" đối với nhà tiên tri Muhammad[37] và kêu gọi Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc lên tiếng về sự kiện này.[38]
Trước các phản ứng này, giáo hoàng và tòa thánh Vatican nhận định rằng công luận đã hiểu nhầm ý của giáo hoàng trong các phát biểu này, cụ thể ý kiến của giáo hoàng là phản đối bạo lực phát sinh từ tôn giáo chứ không phải chỉ trích một tôn giáo cụ thể nào.[35][36]
Một số ý kiến khác cũng bày tỏ sự thông cảm đối với Giáo hoàng. Thủ tướng Úc John Howard cho rằng phản ứng của giới Hồi giáo là "không phù hợp".[41] Thủ tướng Đức Angela Merkel cũng đồng ý là những người chỉ trích đã hiểu nhầm ý của giáo hoàng[42] Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono mặc dù chỉ trích giáo hoàng nhưng đã kêu gọi cộng đồng Hồi giáo phải kiềm chế và hành xử khôn ngoan.[43]
Xem nguyên văn bài phát biểu của Giáo hoàng Biển Đức XVI tại Đại học Regensburg